Tổng Bí thư Tô Lâm: Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Chiều 17/6, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có buổi trao đổi với Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ tư) về mục tiêu tầm nhìn và một số chủ trương, giải pháp đột phá cần tập trung thực hiện để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Cùng dự có đồng chí: Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng…

Xác định mục tiêu, tầm nhìn phát triển đất nước

Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với Lớp Bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp thứ tư). Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

Về mục tiêu, tầm nhìn và những yêu cầu xuyên suốt trong phát triển đất nước giai đoạn hiện nay, tại buổi trao đổi, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ, chúng ta đang trong tiến trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới ngọn cờ dẫn dắt của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Trong đó Cương lĩnh xác định mục tiêu tổng quát và mục tiêu định hướng.

Để cụ thể hóa các mục tiêu này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định 2 mục tiêu 100 năm của đất nước, cụ thể là: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước Xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.

Tổng Bí thư cho biết, thời gian qua, chúng ta đã thống nhất về tầm nhìn kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh của đất nước từ Đại hội XIV của Đảng; thống nhất không thay đổi, mà phải nhất quán, quyết tâm thực hiện hai mục tiêu đến năm 2030 và 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Tổng Bí thư lưu ý, đây là bài toán rất khó, đòi hỏi phải rất trăn trở, rất trí tuệ, rất thực tiễn để tìm câu trả lời. Phải có những nỗ lực trên mức bình thường và phải có các giải pháp đột phá để “đi tắt, đón đầu” mới làm được. Quyết tâm thực hiện mục tiêu tăng trưởng đạt ít nhất 8% trở lên trong năm 2025, tạo nền tảng để tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới. Đây là những mục tiêu bắt buộc phải thực hiện không còn con đường nào khác.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, các nhiệm kỳ Đại hội đều hướng đến 3 yêu cầu: Ổn định, phát triển và nâng cao đời sống nhân dân. Ba yêu cầu này thể hiện sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc của Đảng ta về mối quan hệ biện chứng giữa “ổn định để phát triển” và “phát triển để ổn định”. Đồng thời, mục tiêu cuối cùng là nâng cao đời sống nhân dân, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng lên của người dân - đây chính là một trong những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.

Trọng tâm hiện nay là phải xây dựng được một nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh và bền vững; xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đất nước. Trong năm 2025, nhiều chủ trương, chính sách đã được Trung ương triển khai để thực hiện yêu cầu này như: Ban hành các Nghị quyết của Bộ Chính trị để tạo đột phá trong những vấn đề then chốt, nhất là 4 Nghị quyết quan trọng: Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 59 về tăng cường hội nhập quốc tế; Nghị quyết 66 về đổi mới và hoàn thiện thể chế; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân...

Tăng cường hoàn thiện về hạ tầng như hạ tầng giao thông; hạ tầng số; hạ tầng năng lượng điện; xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các khu thương mại tự do. Tăng cường chống lãng phí gắn với phòng chống tham nhũng, tiêu cực; chỉ đạo rà soát các dự án có khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ, gây lãng phí... Bộ Chính trị đã cho nguyên tắc giải quyết vấn đề này, các cơ quan chức năng đang tích cực triển khai thực hiện.

Tổng Bí thư nêu rõ, còn nhiều việc phải làm để đời sống nhân dân được tốt hơn. Trong thời gian tới, Bộ Chính trị sẽ tiếp tục bàn các giải pháp để tạo đột phá trong hai vấn đề căn bản liên quan đến đời sống nhân dân: Đổi mới nâng cao hiệu quả hệ thống y tế, chuyển mạnh từ phòng bệnh sang chữa bệnh, giảm chi phí y tế cho người dân tiến tới miễn phí toàn dân; tạo đột phá trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chăm lo xây dựng lớp người mới cho giai đoạn tiếp theo của đất nước.

Thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đột phá

Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với Lớp Bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp thứ tư). Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

Về một số chủ trương, giải pháp đột phá, Tổng Bí thư cho biết, Trung ương đã và đang tập trung chỉ đạo đồng thời thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đột phá.

Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính. Hiện nay, các cấp các ngành đã rất tích cực triển khai thực hiện, nhiều công việc vượt tiến độ đề ra. Bộ Chính trị đã quyết định chủ trương thực hiện đồng bộ, thống nhất chủ trương này trong phạm vi toàn quốc bắt đầu từ 1/7/2025.

Đổi mới, hoàn thiện thể chế, Tổng Bí thư nhấn mạnh, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đề ra mục tiêu: Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật. Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm pháp lý đồng bộ cho bộ máy nhà nước theo mô hình 3 cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN. Tầm nhìn đến 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại... được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57, xác định rõ: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, là động lực chủ yếu thúc đẩy hiện đại hóa đất nước, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã được xã hội đồng tình ủng hộ, đón nhận với sự kỳ vọng đột phá để phát triển đất nước. Qua 5 tháng thực hiện, Ban Chỉ đạo Trung ương đã đánh giá trên thực tế hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong thời gian qua đã có chuyển động từ ý tưởng, nghiên cứu đến ứng dụng, nhưng vẫn chưa tạo được sự đột phá sôi động.

Trong thời gian tới, Ban Chỉ đạo Trung ương về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 600 nhiệm vụ cụ thể đã đề ra. Những nhiệm vụ này được kiểm đếm hàng tuần, hàng tháng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải chỉ đạo quyết liệt, cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết thành chương trình, kế hoạch hành động thiết thực; đồng thời xác định trách nhiệm rõ ràng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm sự chuyển biến thực chất trong toàn hệ thống.

Tổng Bí thư khẳng định, chúng ta đã được quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Xác định “phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Cần phân biệt rõ giữa kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nhà nước có đầy đủ nguồn lực, công cụ để điều tiết, bảo đảm nền kinh tế theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư cho biết, để chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59 về tăng cường hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn sâu sắc: hội nhập quốc tế không chỉ là mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và rất có bản lĩnh. Phải nhận thức sâu sắc rằng hội nhập không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan đối ngoại, không chỉ là hoạt động đối ngoại nhà nước, mà là một quá trình tổng hợp, yêu cầu sự tham gia chủ động, tích cực, sáng tạo của toàn hệ thống chính trị, của từng người dân, từng doanh nghiệp, từng ngành nghề, từng lĩnh vực.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, các yêu cầu về công tác xây dựng Đảng đã rất cao, nay lại càng đòi hỏi cao hơn trước yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong kỷ nguyên mới. Đỏi hỏi Đảng ta phải không ngừng cải tiến phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền; nâng cao năng lực tự đổi mới, tự hoàn thiện mình; xây dựng đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh” như lời Bác Hồ đã căn dặn.

Một trong những nội dung then chốt của then chốt trong công tác xây dựng Đảng là công tác cán bộ. Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết.

Lượt xem: 58

Xem nhiều nhất

Ban Bí thư chỉ đạo chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng 1 ngày trước

 Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú Xem xét đề nghị của Văn phòng Trung ương Đảng về Đề án chấn chỉnh lề lối làm việc; phòng, chống hình thức, lãng phí và chuẩn hóa các hoạt động trong hệ thống chính trị (Tờ trình số 151-TTr/VPTW, ngày 24/11/2025), Ban Bí thư kết luận như sau:1. Thời gian qua, với quyết tâm chính trị, nỗ lực lớn của toàn Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát cơ sở, phục vụ người dân tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác như tình trạng ban hành văn bản, hội họp nhiều, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, địa phương chưa thật nhuần nhuyễn, chặt chẽ, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo chưa đồng bộ, thống nhất, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế...2. Để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế trên, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:2.1. Về công tác ban hành văn bản- Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản theo hướng đơn giản hóa và rút gọn, tích hợp các quy trình, thủ tục trong ban hành văn bản. Không ban hành văn bản thuộc thẩm quyền riêng thay cho văn bản thuộc thẩm quyền chung của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Không đưa nội dung về công tác cán bộ, chế độ, chính sách vào văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức, kỹ thuật trình bày.- Tăng cường rà soát, bảo đảm tính nhất quán trong nội dung của các văn bản đã ban hành; sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; tích hợp một số quy định cần thiết có liên quan giữa các văn bản thành quy định chung; tích hợp các nội dung tương đồng liên ngành vào một văn bản liên tịch (bộ, ngành) để hướng dẫn, tổ chức thực hiện, tránh gây khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp và người dân.- Chỉ ban hành văn bản khi thật cần thiết để quy định, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, không ban hành văn bản mang tính sao chép lại nội dung văn bản của cấp trên. Nội dung văn bản phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, rõ mục tiêu; các giải pháp, chính sách đề ra phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Văn bản của cấp dưới phải cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của cấp trên thành các nhiệm vụ, giải pháp của cấp mình, đơn vị mình, có quy định nguồn lực, thời gian hoàn thành và phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hằng năm, các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện tinh giản tối thiểu 15% số lượng văn bản hành chính so với năm trước.2.2. Về công tác tổ chức các hội nghịHằng năm, trên cơ sở chương trình công tác, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị căn cứ tình hình thực tiễn xây dựng kế hoạch tổ chức các hội nghị; trong đó, số lượng hội nghị trực tiếp chiếm không quá 40% và số lượng hội nghị trực tuyến chiếm không ít hơn 60% tổng số hội nghị trong năm. Không tổ chức các hội nghị nếu không thật sự cần thiết hoặc nội dung đã có văn bản hướng dẫn chi tiết. Các cấp không tổ chức lại hội nghị đã tổ chức theo hình thức truyền hình trực tiếp, trực tuyến đến cơ sở. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức hội nghị, không để vượt định mức kinh phí phục vụ hội nghị; thực hiện tinh giản 10% số lượng hội nghị hằng năm.- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường điều phối việc tổ chức hội nghị của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình, tránh trùng lặp, quá tải, tập trung vào thời điểm đầu năm hoặc cuối năm; một năm cấp tỉnh tổ chức không quá 2 hội nghị có quy mô toàn tỉnh (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị tỉnh, thành phố, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn tỉnh thì ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; cấp xã tổ chức không quá 3 hội nghị có quy mô toàn xã (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp xã, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân cấp xã), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn xã thì ban thường vụ đảng ủy cấp xã xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.- Khi tổ chức hội nghị cần xác định rõ quy mô và thành phần tham gia, số lượng đại biểu phù hợp, bảo đảm hiệu quả theo nguyên tắc hội nghị của khối nào (Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử, đoàn thể) thì mời đại biểu của khối đó dự. Hội nghị toàn quốc do Bộ Chính trị triệu tập có thành phần là các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các hội nghị còn lại chỉ mời, triệu tập những thành phần thuộc phạm vi quản lý của cấp triệu tập hội nghị và có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nội dung hội nghị. Hội nghị của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức có tính chất nội bộ: Chỉ mời đại biểu của cấp mình, ngành mình, không mời đại biểu Trung ương và các ngành, địa phương khác (trừ trường hợp nội dung hội nghị có tính chất liên ngành, liên địa phương cần phải phối hợp giải quyết; việc tổ chức đại hội, lễ kỷ niệm ngày truyền thống thực hiện theo quy định riêng). Các hội nghị chuyên môn: Mời, triệu tập cán bộ phụ trách chuyên môn dự, không mời các thành phần không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực, nội dung chuyên môn của hội nghị. Cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị có trách nhiệm phân công lãnh đạo chủ trì, không mời tất cả lãnh đạo của cơ quan cùng dự và chủ trì.- Đổi mới và cải tiến phương thức họp theo hướng ngắn gọn, rõ nội dung; tập trung thảo luận, không trình bày lại nguyên văn tài liệu đã gửi. Các hội nghị quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị, chủ trương lớn có thời gian họp không quá ½ ngày; các hội nghị chuyên môn, nghiệp vụ có thời gian họp không quá 1 ngày; các hội nghị quan trọng của bộ, ngành, địa phương cần thảo luận thì có thời gian họp không quá 1,5 ngày. Phát biểu tại hội nghị phải ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày, không kể thành tích, diễn biến tình hình. Phát biểu chỉ đạo khai mạc không quá 10 phút, phát biểu kết luận hội nghị của lãnh đạo có tổng thời lượng không quá 50 phút; phát biểu tham luận không quá 10 phút.2.3. Về đổi mới phương thức làm việc, phối hợp công tác, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau sắp xếp; xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và tăng cường quản lý danh mục trách nhiệm, quy chế, quy trình, thủ tục công tác, bảo đảm thống nhất giữa trách nhiệm và quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; bãi bỏ các quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp để đơn giản hóá, giảm gánh nặng cho cấp dưới. Hoạt động của cơ sở phải được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng các kế hoạch, chương trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Tăng cường đổi mới, cải tiến phương thức, phương pháp làm việc, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp, đùn đẩy, né tránh trong tổ chức và hoạt động, gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân; lấy kết quả, sản phẩm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác.- Những nội dung đã phân cấp, phân quyền cần phải được đánh giá và chuẩn hóa rõ ràng. Cấp dưới khi được phân cấp, phân quyền phải tự chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện phân công nhiệm vụ theo nguyên tắc một việc chỉ phân công một đầu mối (cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị) chủ trì giải quyết, xử lý theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm. Cấp trên không được can thiệp trái quy định công việc của cấp dưới, cấp dưới phải chủ động giải quyết công việc thuộc thẩm quyền đã được phân cấp, không được đùn đẩy, né tránh, ỷ lại, xin ý kiến cấp trên những nội dung công việc theo quy định thuộc thẩm quyền và không phải là những khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền.- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy định thực hiện chuyển đổi số trong công tác. Quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm kết nối thông suốt, an toàn thông tin, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu từ Trung ương đến cơ sở, tạo thuận lợi trong khai thác dữ liệu dùng chung, kiểm soát tự động tránh trùng lặp nội dung; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện việc xử lý thủ tục hành chính trên môi trường số và số hóa văn bản đạt từ 95% trở lên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số, kỹ năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ, công chức ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động chuyên môn. Khẩn trương chuẩn hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất các chỉ tiêu, biểu mẫu, hệ thống số liệu thông tin báo cáo, bảo đảm nội dung báo cáo ngắn gọn, rõ thời gian, rõ người chịu trách nhiệm, định lượng được kết quả và giảm được số lượng báo cáo; thực hiện 100% văn bản ban hành và báo cáo định kỳ, thông tin truyền tải giữa các cấp qua môi trường mạng.- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội về tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ngay tại cơ sở, không để kéo dài; đề cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Hằng năm, thực hiện việc đánh giá, xếp loại cán bộ đối với người đứng đầu thông qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Kết luận này tại tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách.3. Các tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, thực hiện toàn diện, triệt để các nội dung về chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị trực thuộc.- Hằng năm, định kỳ 6 tháng, quý, các tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Bí thư về việc thực hiện Kết luận này, tập trung vào kết quả giảm số lượng văn bản ban hành, số lượng các hội nghị, cuộc họp; việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.- Giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo, giải quyết./.