Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

Cách đây 71 năm, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ đập tan cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ngày 6/5/1954, ta mở cuộc tổng công kích vào Điện Biên Phủ, phá tan các lô cốt 

và hầm ngầm cố thủ của địch trên đồi A1 - vị trí quan trọng ở Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, cách đây 71 năm, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ - đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đập tan cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Không chỉ đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, trở thành biểu tượng của sự kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc qua hàng ngàn năm dựng nước và dựng nước, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi khắc ghi sự cống hiến, hy sinh to lớn của biết bao cán bộ, chiến sỹ Quân đội và nhân dân Việt Nam, là sự thể hiện đỉnh cao của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Tạo ưu thế về sức mạnh chính trị tinh thần

Với tầm nhìn chiến lược, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh đòn quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bước vào Chiến dịch, ta đã huy động năm đại đoàn chủ lực bao vây, tiến công địch và hơn 260.000 dân công phục vụ chiến dịch.

Bằng sức mạnh tổng hợp của các yếu tố con người-vũ khí-trang bị, tổ chức lực lượng, nghệ thuật quân sự, thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc," bộ đội ta đã liên tục tiến công, lần lượt đột phá, tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Thắng lợi của Chiến dịch đến từ nhiều yếu tố, trong đó đầu tiên phải kể đến đó là ta đã nắm chắc tình hình, kịp thời đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn, lựa chọn mục tiêu tác chiến phù hợp, có ý nghĩa quyết định giành chiến lược; kịp thời thay đổi phương châm tác chiến - yếu tố có ý nghĩa trực tiếp quyết định thắng lợi Chiến dịch.

Trước và trong quá trình diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta được phát huy cao độ; đồng thời tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch dài ngày, nơi tập trung những nỗ lực cao nhất của cả hai bên. Chính vì vậy, đó là cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ với nhiều mất mát, hy sinh. Nhưng dưới sự lãnh đạo, giáo dục, tổ chức và rèn luyện của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn sức mạnh tinh thần vô địch của dân tộc đã được khơi dậy, chuyển hóa thành sức mạnh vật chất để chiến thắng kẻ thù. Chính sách giảm tô, cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân, trong đó có nhiều gia đình cán bộ, chiến sỹ ngoài mặt trận đã khơi dậy lòng biết ơn và niềm tin tuyệt đối của bộ đội vào Đảng, Bác Hồ và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Bên cạnh đó, thông qua các đợt học tập, chỉnh quân chính trị, phát động căm thù, đặc biệt là sau khi được học tập, quán triệt các mệnh lệnh của Chỉ huy trưởng Chiến dịch về tăng cường ý thức chấp hành kỷ luật chiến trường, thực hiện tốt nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chuyển từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc," tinh thần quyết chiến, quyết thắng được nâng cao trong cán bộ, chiến sỹ, tạo nên ưu thế tuyệt đối sức mạnh chính trị tinh thần làm nên thắng lợi của Chiến dịch.

Nghệ thuật chọn mục tiêu mở đầu Chiến dịch

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, cả thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đều coi Điện Biên phủ là “một pháo đài không thể công phá.” Trong tập đoàn cứ điểm này, cụm cứ điểm Him Lam thuộc phân khu trung tâm, cùng với các trung tâm đề kháng đồi Độc Lập, Bản Kéo của phân khu Bắc tạo thành trận địa phòng ngự tiền duyên án ngữ phía Bắc và Đông Bắc, bảo vệ Mường Thanh.

Thực hiện kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, Hội nghị Bộ Chính trị (họp ngày 6/12/1953) đã thông qua quyết tâm của Tổng Quân ủy: "Tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ mở chiến dịch tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ." Để thực hiện quyết tâm trên, Bộ Chỉ huy Chiến dịch chọn phương châm đánh chắc, tiến chắc, cách đánh tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh từng trận hay một số trận gối đầu liên tiếp, diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm ngoại vi, "bóc vỏ" từ ngoài, mở đường tiến vào cánh đồng Mường Thanh.

Hàng chục khẩu pháo của ta đồng loạt nhả đạn lên các vị trí của quân Pháp trên đồi Him Lam, 

mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Với cách đánh này, Bộ Chỉ huy Chiến dịch chọn Him Lam là mục tiêu mở đầu. Đại đoàn 312 (thiếu Trung đoàn 165) được tăng cường "hai đại đội sơn pháo 75mm, hai đại đội cối 120mm, hai đại đội cối 82mm" có nhiệm vụ tiến công Him Lam, mở đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ; quá trình chiến đấu được hai đại đội lựu pháo 105mm trực tiếp chi viện.

Đúng 17 giờ 5 phút ngày 13/3/1954, pháo binh ta thực hành hỏa lực chuẩn bị đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện cho các lực lượng tiến công của Đại đoàn 312 cơ động, chiếm lĩnh trận địa xuất phát xung phong.

Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 13/3/1954, ta bắt đầu mở cửa. Trung đoàn 141 sử dụng Tiểu đoàn 11 tiến công hướng chủ yếu, tiêu diệt cứ điểm 1 (102); Tiểu đoàn 428 tiến công hướng thứ yếu, tiêu diệt cứ điểm 2 (101A). Trung đoàn 209 sử dụng Tiểu đoàn 130 tiến công cứ điểm 3 (101B).

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, nhất là hướng chủ yếu của Trung đoàn 141. Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày, trung tâm đề kháng Him Lam hoàn toàn bị tiêu diệt, "hơn 200 tên bị chết, 270 tên bị bắt sống, tiểu đoàn lê dương 3 bị loại khỏi vòng chiến đấu" (theo "Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp," Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân).

Thắng lợi Him Lam để lại bài học quý về nghệ thuật mở đầu chiến dịch tiến công, thể hiện trí tuệ quân sự Việt Nam, nổi bật nhất ở việc chọn đúng mục tiêu mở đầu Chiến dịch. Đây là lựa chọn chính xác, khoa học, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của Chiến dịch. Mục tiêu mở đầu thường chọn các vị trí hiểm yếu, khi ta đánh trúng sẽ làm rúng động toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch, tạo phản ứng dây chuyền có lợi cho ta, bất lợi cho địch; bảo đảm vừa sức, chắc thắng. Tiến công Him Lam để mở đầu chiến dịch là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn tổ chức, bố trí phòng ngự của đối tượng tác chiến.

Thắng lợi của trận mở đầu có tác dụng khích lệ tinh thần, xây dựng niềm tin chiến thắng cho bộ đội, uy hiếp tinh thần, làm địch hoang mang, tạo thế, lực, thời cơ có lợi để tiến công mục tiêu chủ yếu. Bên cạnh đó, trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, ta vẫn tiếp tục có sự điều chỉnh bảo đảm phù hợp phương châm, phương pháp tác chiến.

Tất cả cho mặt trận

Cùng với ý chí quyết tâm nơi tiền tuyến, chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ còn để lại một bài học lớn về phát huy thế trận hậu cần nhân dân. Theo phương châm tác chiến, dự kiến nhu cầu hậu cần chiến dịch gồm: 434 tấn đạn, 7.730 tấn gạo, 140 tấn muối, 465 tấn thực phẩm, cứu chữa 5.000 thương binh và ngày 20/1/1954 phải hoàn thành chuẩn bị về hậu cần.

 

Bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh, tấn công vào

Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Tổng Quân ủy nhận định: "Để tiến hành chiến dịch rất lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất là cung cấp mà chủ yếu là vấn đề đường sá” (theo “Lịch sử hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam,” Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân).

17 giờ 5 phút ngày 13/3/1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ mở màn bằng trận tiến công Him Lam. Các tuyến hậu cần bước vào phục vụ bộ đội chiến đấu. Khó khăn lớn nhất của công tác bảo đảm chiến dịch là các tuyến vận tải rất dài, qua địa hình rừng núi hiểm trở, sông suối chia cắt, đường xấu... Tuyến từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Sơn La dài hơn 600km; tuyến từ Nho Quan, Ninh Bình và Thanh Hóa lên Sơn La dài hơn 300km; tuyến từ Sơn La đến mặt trận dài hơn 150km. Trên các tuyến đường đó, địch xác định có 40 trọng điểm đánh phá có thể cắt đứt toàn bộ tuyến tiếp viện của ta.

Để tập trung đánh phá các trọng điểm, máy bay địch đánh 1.186 trận vào các tuyến giao thông, ngày cao nhất sử dụng 250 lượt bắn phá (trong đó có cả máy bay cường kích B-26). Các đèo Lũng Lô, Pha Đin, các đầu mối giao thông Cò Nòi, Tuần Giáo... trở thành trọng điểm đánh phá của địch, có ngày chúng ném xuống Cò Nòi và đèo Pha Đin 160-300 quả bom các loại. Song, bất chấp sự oanh tạc của quân địch, huyết mạch giao thông vận tải phục vụ Chiến dịch luôn được bảo đảm. Để bảo vệ giao thông, ta sử dụng hai tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm, các tiểu đoàn súng máy 12,7mm bắn máy bay; bốn tiểu đoàn công binh cùng hàng vạn dân công liên tục bám các trục đường bảo đảm giao thông...

Chính tướng Navarre, Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương cũng phải thừa nhận: "... Hiếm có đoạn đường nào bị đứt quá 24 giờ. Hơn nữa, trong thời gian đường bị cắt đứt, việc vận chuyển vẫn được tiếp tục bằng cách chuyển tải hoặc đi vòng đường khác."

Để vận chuyển khối lượng lớn vật chất lên mặt trận, công tác hậu cần Chiến dịch thực hiện phương châm "lấy vận tải cơ giới là chủ yếu, triệt để phát huy cơ giới, đồng thời tranh thủ mọi phương tiện thô sơ." Hơn 20.000 xe đạp thồ được các địa phương huy động phục vụ Chiến dịch.

Nhà báo Giuyn Roa, nguyên Đại tá quân đội Pháp đã viết: "... Không phải viện trợ của Trung Quốc đánh bại tướng Navarre mà đó là những chiếc xe đạp Pơgiô thồ 200-300kg hàng, do những dân công ăn không no, ngủ trên những tấm ni lon trải ngay trên mặt đất. Tướng Navarre bị đánh bại bởi trí thông minh và quyết tâm chiến thắng của đối phương!"

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành Hậu cần đã huy động toàn bộ lực lượng, bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch (lực lượng chiến đấu 53.830 người); khối lượng vật chất phục vụ chiến dịch lên tới 20.000 tấn: 1.200 tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác (theo “Lịch sử hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam,” Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng đánh giá: “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung cấp lương thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày, từng giờ, không kém tình hình chiến đấu..., quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục được khó khăn này. Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá được được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù....”

Với tinh thần "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng," quân và dân ta vượt mọi khó khăn, bảo đảm cho Chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi./.

Lượt xem: 64

Xem nhiều nhất

Ban Bí thư chỉ đạo chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng 1 ngày trước

 Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú Xem xét đề nghị của Văn phòng Trung ương Đảng về Đề án chấn chỉnh lề lối làm việc; phòng, chống hình thức, lãng phí và chuẩn hóa các hoạt động trong hệ thống chính trị (Tờ trình số 151-TTr/VPTW, ngày 24/11/2025), Ban Bí thư kết luận như sau:1. Thời gian qua, với quyết tâm chính trị, nỗ lực lớn của toàn Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát cơ sở, phục vụ người dân tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác như tình trạng ban hành văn bản, hội họp nhiều, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, địa phương chưa thật nhuần nhuyễn, chặt chẽ, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo chưa đồng bộ, thống nhất, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế...2. Để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế trên, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:2.1. Về công tác ban hành văn bản- Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản theo hướng đơn giản hóa và rút gọn, tích hợp các quy trình, thủ tục trong ban hành văn bản. Không ban hành văn bản thuộc thẩm quyền riêng thay cho văn bản thuộc thẩm quyền chung của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Không đưa nội dung về công tác cán bộ, chế độ, chính sách vào văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức, kỹ thuật trình bày.- Tăng cường rà soát, bảo đảm tính nhất quán trong nội dung của các văn bản đã ban hành; sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; tích hợp một số quy định cần thiết có liên quan giữa các văn bản thành quy định chung; tích hợp các nội dung tương đồng liên ngành vào một văn bản liên tịch (bộ, ngành) để hướng dẫn, tổ chức thực hiện, tránh gây khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp và người dân.- Chỉ ban hành văn bản khi thật cần thiết để quy định, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, không ban hành văn bản mang tính sao chép lại nội dung văn bản của cấp trên. Nội dung văn bản phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, rõ mục tiêu; các giải pháp, chính sách đề ra phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Văn bản của cấp dưới phải cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của cấp trên thành các nhiệm vụ, giải pháp của cấp mình, đơn vị mình, có quy định nguồn lực, thời gian hoàn thành và phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hằng năm, các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện tinh giản tối thiểu 15% số lượng văn bản hành chính so với năm trước.2.2. Về công tác tổ chức các hội nghịHằng năm, trên cơ sở chương trình công tác, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị căn cứ tình hình thực tiễn xây dựng kế hoạch tổ chức các hội nghị; trong đó, số lượng hội nghị trực tiếp chiếm không quá 40% và số lượng hội nghị trực tuyến chiếm không ít hơn 60% tổng số hội nghị trong năm. Không tổ chức các hội nghị nếu không thật sự cần thiết hoặc nội dung đã có văn bản hướng dẫn chi tiết. Các cấp không tổ chức lại hội nghị đã tổ chức theo hình thức truyền hình trực tiếp, trực tuyến đến cơ sở. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức hội nghị, không để vượt định mức kinh phí phục vụ hội nghị; thực hiện tinh giản 10% số lượng hội nghị hằng năm.- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường điều phối việc tổ chức hội nghị của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình, tránh trùng lặp, quá tải, tập trung vào thời điểm đầu năm hoặc cuối năm; một năm cấp tỉnh tổ chức không quá 2 hội nghị có quy mô toàn tỉnh (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị tỉnh, thành phố, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn tỉnh thì ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; cấp xã tổ chức không quá 3 hội nghị có quy mô toàn xã (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp xã, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân cấp xã), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn xã thì ban thường vụ đảng ủy cấp xã xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.- Khi tổ chức hội nghị cần xác định rõ quy mô và thành phần tham gia, số lượng đại biểu phù hợp, bảo đảm hiệu quả theo nguyên tắc hội nghị của khối nào (Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử, đoàn thể) thì mời đại biểu của khối đó dự. Hội nghị toàn quốc do Bộ Chính trị triệu tập có thành phần là các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các hội nghị còn lại chỉ mời, triệu tập những thành phần thuộc phạm vi quản lý của cấp triệu tập hội nghị và có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nội dung hội nghị. Hội nghị của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức có tính chất nội bộ: Chỉ mời đại biểu của cấp mình, ngành mình, không mời đại biểu Trung ương và các ngành, địa phương khác (trừ trường hợp nội dung hội nghị có tính chất liên ngành, liên địa phương cần phải phối hợp giải quyết; việc tổ chức đại hội, lễ kỷ niệm ngày truyền thống thực hiện theo quy định riêng). Các hội nghị chuyên môn: Mời, triệu tập cán bộ phụ trách chuyên môn dự, không mời các thành phần không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực, nội dung chuyên môn của hội nghị. Cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị có trách nhiệm phân công lãnh đạo chủ trì, không mời tất cả lãnh đạo của cơ quan cùng dự và chủ trì.- Đổi mới và cải tiến phương thức họp theo hướng ngắn gọn, rõ nội dung; tập trung thảo luận, không trình bày lại nguyên văn tài liệu đã gửi. Các hội nghị quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị, chủ trương lớn có thời gian họp không quá ½ ngày; các hội nghị chuyên môn, nghiệp vụ có thời gian họp không quá 1 ngày; các hội nghị quan trọng của bộ, ngành, địa phương cần thảo luận thì có thời gian họp không quá 1,5 ngày. Phát biểu tại hội nghị phải ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày, không kể thành tích, diễn biến tình hình. Phát biểu chỉ đạo khai mạc không quá 10 phút, phát biểu kết luận hội nghị của lãnh đạo có tổng thời lượng không quá 50 phút; phát biểu tham luận không quá 10 phút.2.3. Về đổi mới phương thức làm việc, phối hợp công tác, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau sắp xếp; xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và tăng cường quản lý danh mục trách nhiệm, quy chế, quy trình, thủ tục công tác, bảo đảm thống nhất giữa trách nhiệm và quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; bãi bỏ các quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp để đơn giản hóá, giảm gánh nặng cho cấp dưới. Hoạt động của cơ sở phải được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng các kế hoạch, chương trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Tăng cường đổi mới, cải tiến phương thức, phương pháp làm việc, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp, đùn đẩy, né tránh trong tổ chức và hoạt động, gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân; lấy kết quả, sản phẩm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác.- Những nội dung đã phân cấp, phân quyền cần phải được đánh giá và chuẩn hóa rõ ràng. Cấp dưới khi được phân cấp, phân quyền phải tự chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện phân công nhiệm vụ theo nguyên tắc một việc chỉ phân công một đầu mối (cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị) chủ trì giải quyết, xử lý theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm. Cấp trên không được can thiệp trái quy định công việc của cấp dưới, cấp dưới phải chủ động giải quyết công việc thuộc thẩm quyền đã được phân cấp, không được đùn đẩy, né tránh, ỷ lại, xin ý kiến cấp trên những nội dung công việc theo quy định thuộc thẩm quyền và không phải là những khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền.- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy định thực hiện chuyển đổi số trong công tác. Quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm kết nối thông suốt, an toàn thông tin, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu từ Trung ương đến cơ sở, tạo thuận lợi trong khai thác dữ liệu dùng chung, kiểm soát tự động tránh trùng lặp nội dung; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện việc xử lý thủ tục hành chính trên môi trường số và số hóa văn bản đạt từ 95% trở lên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số, kỹ năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ, công chức ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động chuyên môn. Khẩn trương chuẩn hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất các chỉ tiêu, biểu mẫu, hệ thống số liệu thông tin báo cáo, bảo đảm nội dung báo cáo ngắn gọn, rõ thời gian, rõ người chịu trách nhiệm, định lượng được kết quả và giảm được số lượng báo cáo; thực hiện 100% văn bản ban hành và báo cáo định kỳ, thông tin truyền tải giữa các cấp qua môi trường mạng.- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội về tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ngay tại cơ sở, không để kéo dài; đề cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Hằng năm, thực hiện việc đánh giá, xếp loại cán bộ đối với người đứng đầu thông qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Kết luận này tại tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách.3. Các tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, thực hiện toàn diện, triệt để các nội dung về chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị trực thuộc.- Hằng năm, định kỳ 6 tháng, quý, các tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Bí thư về việc thực hiện Kết luận này, tập trung vào kết quả giảm số lượng văn bản ban hành, số lượng các hội nghị, cuộc họp; việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.- Giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo, giải quyết./.