Hà Tĩnh và “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng

Nếu nói “Đảng ta thật là vĩ đại” thì mỗi đảng bộ địa phương, mỗi ngành, mỗi đơn vị trong cả nước là một bộ phận quan trọng làm nên sự vĩ đại đó. Nếu nói lịch sử Đảng ta là “một pho lịch sử bằng vàng” thì lịch sử của mỗi đảng bộ địa phương, của từng ngành, đơn vị là những trang vàng chói lọi mà nên. Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh là một trong những trang chói lọi như vậy.

Với tất cả tinh thần khiêm tốn, người Hà Tĩnh có quyền tự hào về những đóng góp to lớn trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Trải qua thời gian, vượt qua không gian, trên mỗi tấc đất và từng con người Hà Tĩnh đều tạo dựng nên những dấu ấn lịch sử vô cùng kỳ diệu, trở nên những “hiện tượng” có một không hai trong lịch sử nước nhà và được nâng lên ở tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh.
 

 
Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. (Ảnh: Đậu Hà).
 

Thật lạ kỳ, không ở đâu trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt “Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa/ Ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc”, lại hun đúc và sản sinh ra nhiều con người “làm nên lịch sử” đến như vậy. Sử xưa chép lại, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII có 148 vị đại khoa, 3 trạng nguyên; có nhiều người nổi danh như Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du, mà “Kiệt tác của ông có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, chỉ vì ghét “Cái chí bon chen trong trường danh lợi” mà quyết chí theo học nghề thuốc giúp đời, giúp người. Ông trở thành Đại danh y, niềm tự hào của Hà Tĩnh nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam, được UNESCO vinh danh.
 

 

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác - đại danh y, nhà văn hóa lớn của dân tộc.


Không ít những bậc danh nhân, hiền tài “tiếng thơm” còn mãi lay động lòng người, như: nhà viết sử Phan Huy Chú - bác học, danh nhân văn hóa, tài danh lỗi lạc về bách khoa thư; Nguyễn Công Trứ - nhà quân sự, nhà kinh tế, nhà thơ nôm trác việt; Nguyễn Biểu - nhà ngoại giao được xếp vào danh sách “bề tôi trung nghĩa” (triều Lê sơ), trở thành tấm gương tiêu biểu cho tinh thần dũng cảm của quân dân Đại Việt trong tình cảnh đất nước bị xâm lăng; La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp - một danh sĩ hơn đời, nổi tiếng uyên thâm, học cao hiểu rộng, cốt cách phi phàm…
Cũng rất ít ở đâu trên đất nước này, người dân tưởng như quanh năm chỉ lam lũ với vốn tri thức kinh nghiệm để lo miếng cơm manh áo, lại sản sinh ra những người con trung kiên, sớm giác ngộ tinh thần yêu nước, nhạy bén về chính trị, vượt qua mọi hiểm nguy, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, tổ chức, huấn luyện. Và rồi thế hệ thanh niên yêu nước ấy đều trở thành những hạt giống đỏ, những tấm gương cộng sản tiêu biểu có một không hai trong lịch sử cách mạng nước nhà.
 

 

Nhà lưu niệm, nơi lưu giữ hàng trăm hiện vật nói về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Tổng Bí thư Trần Phú.
 
Đó là Tổng Bí thư của Đảng trong thời kỳ đầu cách mạng - đồng chí Trần Phú với lời nhắn nhủ bạn bè “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”; đồng chí Hà Huy Tập - Tổng Bí thư của Đảng, người đã góp phần tích cực trong việc khôi phục lại cơ quan Trung ương của Đảng bị phá vỡ sau cao trào 1930-1931, tham gia chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng I, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lãnh đạo suốt 4 năm kể từ khi cao trào 1930-1931 bị thực dân Pháp “dìm trong biển máu”; hay ý chí, tinh thần của anh Lý Tự Trọng - người thanh niên cộng sản đầu tiên; người chiến sĩ cộng sản kiên trung, thế hệ học trò đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - đồng chí Lê Duy Điếm…
Trần Phú, Hà Huy Tập, Lý Tự Trọng, Lê Duy Điếm... là những hạt giống đỏ chuẩn bị cho quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và gây dựng phong trào cách mạng ngay từ khi còn thai nghén. Sự hy sinh anh dũng của các đồng chí ấy khi tuổi đời còn rất trẻ nhưng không hề uổng phí. Tên tuổi, công trạng của họ mãi mãi ghi đậm trong lịch sử hào hùng của Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh, đồng thời đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng ta như những trang chói lọi nhất.

 
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đến cuối tháng 3/1930, Đảng bộ lâm thời Hà Tĩnh được thành lập (tại Bến đò Thượng Trụ, xã Thiên Lộc, Can Lộc).
 

Cùng với những nhân vật ấy là những sự kiện lịch sử không thể phai mờ. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đến cuối tháng 3/1930, Đảng bộ lâm thời Hà Tĩnh được thành lập (tại Bến đò Thượng Trụ, xã Thiên Lộc, Can Lộc), tiếp đó là các tổ chức quần chúng lần lượt ra đời. Nhờ đó, phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, hợp thành cao trào
Xô-viết Nghệ Tĩnh, đỉnh cao của phong trào cách mạng trong những năm 1930-1931. Đến cuối những năm 1930-1931, toàn tỉnh Hà Tĩnh có 170 làng Xô-viết được thành lập, ban bố quyền tự do dân chủ cho Nhân dân, kêu gọi thực hiện nếp sống mới, trừng trị các phần tử phản cách mạng. Tuy còn những hạn chế là “chưa đúng hoàn cảnh, bạo động trong lúc chưa có tình thế cách mạng, bạo động riêng lẻ” như Trung ương Đảng đã chỉ ra, nhưng cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 chính là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng giành chính quyền sau này. Vì thế, trong Tổng khởi nghĩa 1945, Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh giành được chính quyền sớm nhất cả nước.
Phát huy tinh thần Xô-viết Nghệ Tĩnh và Cách mạng Tháng Tám, trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Nhân dân Hà Tĩnh lại được hun đúc thêm chí khí và nghị lực phi thường, tiếp tục đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí, bằng tinh thần yêu nước và bằng lòng tự trọng. Đã có hàng ngàn, hàng vạn người con Hà Tĩnh xung phong tham gia dân công hỏa tuyến, TNXP, dân quân tự vệ… và cũng có hàng vạn người dân làm hậu phương vững chắc với tinh thần “xe chưa qua, nhà không tiếc”.
 


Xô viết Nghệ - Tĩnh là sự phát triển tất yếu của cao trào đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân cả nước trong những năm 1930-1931. Ảnh tư liệu.
 

Đặc biệt, trong Chiến dịch đông xuân 1953-1954, Hà Tĩnh có 56.000 dân công (chiếm hơn 1/2 số lượng dân công cả nước), góp phần đập tan “Pháo đài không thể công phá” của giặc Pháp, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Trong 10 năm (1965-1975) chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh đã bổ sung một lực lượng lớn cho quân đội gồm 92.913 thanh niên (chiếm hơn 10% dân số lúc bấy giờ), huy động 334.128 dân công hỏa tuyến, 10.636 TNXP, bổ sung cho các chiến trường 21 tiểu đoàn, 15 đại đội bộ đội địa phương… góp phần quan trọng làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.
 


Chiến tranh lùi xa, truyền thống anh hùng, sáng tạo, kiên cường của người dân Hà Tĩnh tiếp tục phát huy trong xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
 

Chiến tranh đi qua, Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh đau xót với 25.625 người hy sinh, 11.636 thương binh, 7.705 bệnh binh. Tất cả các huyện, thị và 184 xã, thị trấn, 17 cơ quan, 34 cá nhân và 801 bà mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng. Những tên đất, tên làng trở thành biểu tượng của tinh thần quyết thắng, anh hùng như Ngã ba Đồng Lộc; “làng đỏ” Phù Việt; Nhà lao Hà Tĩnh… Đó là sự đóng góp vô cùng to lớn so với thực lực của Hà Tĩnh, góp phần viết nên “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng ta.
Những thanh niên trí thức Trần Phú, Hà Huy Tập, những Lý Tự Trọng, Lê Bình, Phan Đình Giót, Võ Triều Chung, 10 nữ TNXP hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc cùng hàng vạn anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, những người có nhiều cống hiến cho quê hương, đất nước đã trở thành biểu tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng để Nhân dân và tuổi trẻ cả nước mãi mãi tự hào, học tập, noi theo.
Chiến tranh lùi xa, truyền thống anh hùng, sáng tạo, kiên cường của người dân Hà Tĩnh lại được tiếp tục phát huy trong xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi tách tỉnh (1991), Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đoàn kết, nhất trí, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển KT-XH, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng.
KT-XH của Hà Tĩnh đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, từ một địa phương nông nghiệp lạc hậu đã trở thành điểm sáng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng NTM. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được cải thiện. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, hệ thống chính trị từng bước được đổi mới. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh, chính trị - xã hội ổn định, tạo ra thế và lực mới để Hà Tĩnh tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt đẹp.

 

Hà Tĩnh ngày càng phát triển hiện đại, văn minh.
 
Quyết tâm xây dựng Hà Tĩnh ngày càng giàu mạnh, “Hà Tĩnh phải làm sao cho tình hình nổi bật lên” như Bác Hồ hằng mong muốn, Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh tiếp tục phát huy truyền thống 95 năm kiên trung với Đảng, nêu cao tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo; khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương, phát triển nhanh và bền vững. Nhất định, Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh sẽ viết tiếp những trang sử vẻ vang, góp phần làm phong phú và sinh động hơn nữa “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng quang vinh và dân tộc Việt Nam anh hùng.
 
 
 


 

Tác giả bài viết: TS Nguyễn Thành Vinh-nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Tuyên giáo

Nguồn tin: Báo Hà Tĩnh

Lượt xem: 58

Xem nhiều nhất

Ban Bí thư chỉ đạo chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng 1 ngày trước

 Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú Xem xét đề nghị của Văn phòng Trung ương Đảng về Đề án chấn chỉnh lề lối làm việc; phòng, chống hình thức, lãng phí và chuẩn hóa các hoạt động trong hệ thống chính trị (Tờ trình số 151-TTr/VPTW, ngày 24/11/2025), Ban Bí thư kết luận như sau:1. Thời gian qua, với quyết tâm chính trị, nỗ lực lớn của toàn Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát cơ sở, phục vụ người dân tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác như tình trạng ban hành văn bản, hội họp nhiều, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, địa phương chưa thật nhuần nhuyễn, chặt chẽ, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo chưa đồng bộ, thống nhất, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế...2. Để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế trên, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:2.1. Về công tác ban hành văn bản- Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản theo hướng đơn giản hóa và rút gọn, tích hợp các quy trình, thủ tục trong ban hành văn bản. Không ban hành văn bản thuộc thẩm quyền riêng thay cho văn bản thuộc thẩm quyền chung của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Không đưa nội dung về công tác cán bộ, chế độ, chính sách vào văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức, kỹ thuật trình bày.- Tăng cường rà soát, bảo đảm tính nhất quán trong nội dung của các văn bản đã ban hành; sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; tích hợp một số quy định cần thiết có liên quan giữa các văn bản thành quy định chung; tích hợp các nội dung tương đồng liên ngành vào một văn bản liên tịch (bộ, ngành) để hướng dẫn, tổ chức thực hiện, tránh gây khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp và người dân.- Chỉ ban hành văn bản khi thật cần thiết để quy định, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, không ban hành văn bản mang tính sao chép lại nội dung văn bản của cấp trên. Nội dung văn bản phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, rõ mục tiêu; các giải pháp, chính sách đề ra phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Văn bản của cấp dưới phải cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của cấp trên thành các nhiệm vụ, giải pháp của cấp mình, đơn vị mình, có quy định nguồn lực, thời gian hoàn thành và phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hằng năm, các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện tinh giản tối thiểu 15% số lượng văn bản hành chính so với năm trước.2.2. Về công tác tổ chức các hội nghịHằng năm, trên cơ sở chương trình công tác, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị căn cứ tình hình thực tiễn xây dựng kế hoạch tổ chức các hội nghị; trong đó, số lượng hội nghị trực tiếp chiếm không quá 40% và số lượng hội nghị trực tuyến chiếm không ít hơn 60% tổng số hội nghị trong năm. Không tổ chức các hội nghị nếu không thật sự cần thiết hoặc nội dung đã có văn bản hướng dẫn chi tiết. Các cấp không tổ chức lại hội nghị đã tổ chức theo hình thức truyền hình trực tiếp, trực tuyến đến cơ sở. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức hội nghị, không để vượt định mức kinh phí phục vụ hội nghị; thực hiện tinh giản 10% số lượng hội nghị hằng năm.- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường điều phối việc tổ chức hội nghị của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình, tránh trùng lặp, quá tải, tập trung vào thời điểm đầu năm hoặc cuối năm; một năm cấp tỉnh tổ chức không quá 2 hội nghị có quy mô toàn tỉnh (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị tỉnh, thành phố, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn tỉnh thì ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; cấp xã tổ chức không quá 3 hội nghị có quy mô toàn xã (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp xã, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân cấp xã), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn xã thì ban thường vụ đảng ủy cấp xã xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.- Khi tổ chức hội nghị cần xác định rõ quy mô và thành phần tham gia, số lượng đại biểu phù hợp, bảo đảm hiệu quả theo nguyên tắc hội nghị của khối nào (Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử, đoàn thể) thì mời đại biểu của khối đó dự. Hội nghị toàn quốc do Bộ Chính trị triệu tập có thành phần là các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các hội nghị còn lại chỉ mời, triệu tập những thành phần thuộc phạm vi quản lý của cấp triệu tập hội nghị và có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nội dung hội nghị. Hội nghị của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức có tính chất nội bộ: Chỉ mời đại biểu của cấp mình, ngành mình, không mời đại biểu Trung ương và các ngành, địa phương khác (trừ trường hợp nội dung hội nghị có tính chất liên ngành, liên địa phương cần phải phối hợp giải quyết; việc tổ chức đại hội, lễ kỷ niệm ngày truyền thống thực hiện theo quy định riêng). Các hội nghị chuyên môn: Mời, triệu tập cán bộ phụ trách chuyên môn dự, không mời các thành phần không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực, nội dung chuyên môn của hội nghị. Cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị có trách nhiệm phân công lãnh đạo chủ trì, không mời tất cả lãnh đạo của cơ quan cùng dự và chủ trì.- Đổi mới và cải tiến phương thức họp theo hướng ngắn gọn, rõ nội dung; tập trung thảo luận, không trình bày lại nguyên văn tài liệu đã gửi. Các hội nghị quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị, chủ trương lớn có thời gian họp không quá ½ ngày; các hội nghị chuyên môn, nghiệp vụ có thời gian họp không quá 1 ngày; các hội nghị quan trọng của bộ, ngành, địa phương cần thảo luận thì có thời gian họp không quá 1,5 ngày. Phát biểu tại hội nghị phải ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày, không kể thành tích, diễn biến tình hình. Phát biểu chỉ đạo khai mạc không quá 10 phút, phát biểu kết luận hội nghị của lãnh đạo có tổng thời lượng không quá 50 phút; phát biểu tham luận không quá 10 phút.2.3. Về đổi mới phương thức làm việc, phối hợp công tác, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau sắp xếp; xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và tăng cường quản lý danh mục trách nhiệm, quy chế, quy trình, thủ tục công tác, bảo đảm thống nhất giữa trách nhiệm và quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; bãi bỏ các quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp để đơn giản hóá, giảm gánh nặng cho cấp dưới. Hoạt động của cơ sở phải được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng các kế hoạch, chương trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Tăng cường đổi mới, cải tiến phương thức, phương pháp làm việc, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp, đùn đẩy, né tránh trong tổ chức và hoạt động, gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân; lấy kết quả, sản phẩm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác.- Những nội dung đã phân cấp, phân quyền cần phải được đánh giá và chuẩn hóa rõ ràng. Cấp dưới khi được phân cấp, phân quyền phải tự chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện phân công nhiệm vụ theo nguyên tắc một việc chỉ phân công một đầu mối (cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị) chủ trì giải quyết, xử lý theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm. Cấp trên không được can thiệp trái quy định công việc của cấp dưới, cấp dưới phải chủ động giải quyết công việc thuộc thẩm quyền đã được phân cấp, không được đùn đẩy, né tránh, ỷ lại, xin ý kiến cấp trên những nội dung công việc theo quy định thuộc thẩm quyền và không phải là những khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền.- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy định thực hiện chuyển đổi số trong công tác. Quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm kết nối thông suốt, an toàn thông tin, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu từ Trung ương đến cơ sở, tạo thuận lợi trong khai thác dữ liệu dùng chung, kiểm soát tự động tránh trùng lặp nội dung; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện việc xử lý thủ tục hành chính trên môi trường số và số hóa văn bản đạt từ 95% trở lên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số, kỹ năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ, công chức ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động chuyên môn. Khẩn trương chuẩn hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất các chỉ tiêu, biểu mẫu, hệ thống số liệu thông tin báo cáo, bảo đảm nội dung báo cáo ngắn gọn, rõ thời gian, rõ người chịu trách nhiệm, định lượng được kết quả và giảm được số lượng báo cáo; thực hiện 100% văn bản ban hành và báo cáo định kỳ, thông tin truyền tải giữa các cấp qua môi trường mạng.- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội về tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ngay tại cơ sở, không để kéo dài; đề cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Hằng năm, thực hiện việc đánh giá, xếp loại cán bộ đối với người đứng đầu thông qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Kết luận này tại tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách.3. Các tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, thực hiện toàn diện, triệt để các nội dung về chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị trực thuộc.- Hằng năm, định kỳ 6 tháng, quý, các tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Bí thư về việc thực hiện Kết luận này, tập trung vào kết quả giảm số lượng văn bản ban hành, số lượng các hội nghị, cuộc họp; việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.- Giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo, giải quyết./.