Chiến công hiển hách, thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc

Không chỉ chấm dứt ách đô hộ kéo dài hàng thế kỷ, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn là biểu tượng rực rỡ của khát vọng tự do, quyền làm chủ và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam.

 

80-nam-cach-mang-thang-tam-15.jpg

Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là chiến công hiển hách, thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc. Không chỉ chấm dứt ách đô hộ kéo dài hàng thế kỷ, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn là biểu tượng rực rỡ của khát vọng tự do, quyền làm chủ và sức mạnh quật cường của dân tộc Việt Nam.

80 năm đã trôi qua, tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của sự kiện trọng đại này vẫn vẹn nguyên giá trị, là nguồn cảm hứng và sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Chiến công hiển hách

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị công phu, được kết tinh từ phong trào yêu nước sôi nổi, liên tục và bền bỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tại thời điểm năm 1945, phong trào cách mạng Việt Nam đã phát triển đến đỉnh cao. Hàng triệu quần chúng đã sẵn sàng vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ, giành lấy quyền làm chủ đất nước. Các cuộc mít tinh, biểu tình, vũ trang thị uy do Việt Minh lãnh đạo trở thành “lửa thử vàng” cho ý chí độc lập của toàn dân tộc.

Ngày 9/3/1945, khi phát xít Nhật đảo chính Pháp nhằm độc chiếm Đông Dương, cục diện thuộc địa sụp đổ. Với tầm nhìn chiến lược, Đảng ta lập tức ra bản chỉ thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định rõ kẻ thù trước mắt là phát xít Nhật và phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Đây không chỉ là sự thay đổi chiến thuật, mà còn là bước ngoặt về tư duy hành động, chuẩn bị trực tiếp cho tổng khởi nghĩa toàn dân.

https://cdn.baohatinh.vn/images/941c48c3fa4cf8a807fa08e486e980521e23d1df69c38408950969ec562ecfaf6e6f67d4af31150d39d3c1a36d729f5de15abbf01ad0ba1b94413843edee525ba9cad1d2228180cc14a213f85f44339e/80-nam-cach-mang-thang-tam-15-1-4248.jpgCách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, phát xít; xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời; mở ra bước ngoặt lịch sử trọng đại, đưa đất nước Việt Nam từ một xứ thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, có chủ quyền; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Trong ảnh: Nhân dân ở nhiều địa phương nổi dậy đánh chiếm kho thóc của Nhật cứu đói. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, phát xít; xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời; mở ra bước ngoặt lịch sử trọng đại, đưa đất nước Việt Nam từ một xứ thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, có chủ quyền; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Trong ảnh: Nhân dân ở nhiều địa phương nổi dậy đánh chiếm kho thóc của Nhật cứu đói. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Pác Bó về Tân Trào để lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ đây Tân Trào trở thành trung tâm căn cứ địa - Thủ đô khu giải phóng trong cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tại đây, lực lượng cách mạng không ngừng được củng cố, rèn luyện, tập dượt, chờ một thời cơ lớn để giật tung xiềng xích áp bức đã tồn tại hàng thế kỷ.

Tháng 8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, thời cơ lịch sử đã đến. Chớp đúng khoảnh khắc “ngàn vàng", Đảng ta triệu tập Hội nghị toàn quốc, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước, đồng thời thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để lãnh đạo cuộc nổi dậy thần tốc.

Ngay sau đó, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào đã hợp thức hóa quyết tâm chiến lược đó bằng việc thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và thành lập Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.” (1)

Khí thế cách mạng bùng nổ dữ dội, lan nhanh như cuồng phong. Từ đồng bằng đến miền núi, từ đô thị đến nông thôn, Nhân dân nhất loạt nổi dậy. Đặc biệt, khởi nghĩa thắng lợi ở ba đô thị lớn - Hà Nội, Huế, Sài Gòn - đã dập tắt những tàn dư cuối cùng của thực dân phong kiến, tạo nên hiệu ứng lan tỏa toàn quốc.

Chỉ trong vòng nửa tháng (từ ngày 14/8-28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, chính quyền cả nước thuộc về tay Nhân dân.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập.” (2)

Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” (Ảnh: TTXVN)

Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” (Ảnh: TTXVN)

Không chỉ là văn kiện pháp lý khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Tuyên ngôn độc lập còn là lời thề thiêng liêng của dân tộc: “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy” (3). Điều này đã được chứng minh rõ nét qua các cuộc đấu tranh chống quân xâm lược sau này của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Sức mạnh làm nên chiến thắng lịch sử

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết tinh của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, là thành quả tất yếu của cả một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, kiên cường và sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước hết, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi là do đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và linh hoạt của Đảng ta, xuất phát từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Trải qua những cao trào đấu tranh cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh, đến các phong trào 1936-1939 và 1941-1945, Đảng đã không ngừng rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện phương hướng chiến lược: đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xác định chính xác kẻ thù cụ thể trong từng giai đoạn, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn nhiệm vụ phản đế với phản phong.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám còn đến từ năng lực nhạy bén trong đánh giá tình hình và chớp thời cơ cách mạng một cách quyết đoán. Thời điểm phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh (8/1945), Đảng ta đã kịp thời triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào, phát động tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Việc chủ động phát động khởi nghĩa đúng lúc kẻ thù khủng hoảng và lực lượng cách mạng đã sẵn sàng là minh chứng điển hình cho bản lĩnh chiến lược và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng.

Bên cạnh đó, thắng lợi này còn là kết quả của quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài và chu đáo cả về chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được phong trào quần chúng rộng khắp, gây dựng căn cứ kháng chiến vững chắc như căn cứ địa Việt Bắc, Tân Trào... Đây là những điểm tựa chủ chốt để chuyển hóa lực lượng chính trị thành lực lượng khởi nghĩa nhanh chóng, hiệu quả.

Nhân dân Thừa Thiên - Huế tham gia giành chính quyền và kéo vào cửa Thượng Tứ ngày 23/8/1945, ngày cách mạng thắng lợi tại Huế. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)

Nhân dân Thừa Thiên - Huế tham gia giành chính quyền và kéo vào cửa Thượng Tứ ngày 23/8/1945, ngày cách mạng thắng lợi tại Huế. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)

Một nguyên nhân quan trọng nữa là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hội tụ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập, tự do của toàn thể Nhân dân. Hơn 20 triệu đồng bào từ Bắc đến Nam đã nhất tề đứng lên, giành chính quyền nhanh gọn trong vòng nửa tháng.

Cách mạng Tháng Tám là cuộc tổng khởi nghĩa được quần chúng nhân dân hưởng ứng mãnh liệt và chủ động tiến hành, thể hiện tinh thần yêu nước và niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng.

Bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phátxít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do. Nhờ có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhân dân Việt Nam đã thực sự “đổi đời,” từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.

Sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam là bước nhảy vọt to lớn, là cuộc cải biến xã hội vĩ đại không chỉ của lịch sử dân tộc Việt Nam mà của cả lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên thế giới.

Không chỉ là một sự kiện mang ý nghĩa dân tộc, Cách mạng Tháng Tám còn có tầm vóc quốc tế sâu sắc. Đó là minh chứng sinh động cho chân lý: trong thời đại mới, các dân tộc thuộc địa có thể giành độc lập nếu có đường lối đúng đắn và biết khơi dậy sức mạnh toàn dân.

Thắng lợi của Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và góp phần làm tan rã nhanh chóng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phátxít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời.

Về phương diện lý luận, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự thể nghiệm thành công đầu tiên của chủ nghĩa Marx-Lenin tại một nước thuộc địa ở châu Á, đồng thời là kết quả trực tiếp của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là minh chứng cho thấy: một Đảng cách mạng chân chính, chỉ sau 15 năm thành lập, đã có thể lãnh đạo thành công một cuộc cách mạng toàn dân, tạo nên sự kiện vang dội khắp năm châu.

Thành công của Cách mạng tháng Tám mở ra một chương mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam đó là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Trong ảnh: Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đến dự "Ngày cứu quốc" tổ chức tại Nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 20/10/1945. (Ảnh: TTXVN)

Thành công của Cách mạng tháng Tám mở ra một chương mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam đó là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Trong ảnh: Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đến dự "Ngày cứu quốc" tổ chức tại Nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 20/10/1945. (Ảnh: TTXVN)

Khẳng định ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.” (4)

Bài học của trí tuệ và bản lĩnh dân tộc

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã để lại những bài học quý báu, tiếp tục được kế thừa và phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Trước hết, đó là bài học về vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Chính đường lối cách mạng phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, cùng với năng lực nắm bắt tình hình và xử lý linh hoạt của Đảng, đã dẫn dắt Nhân dân ta đến thắng lợi lịch sử. Bài học ấy hiện đang được vận dụng trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước: từ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến xây dựng nền ngoại giao hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Thứ hai là bài học về nghệ thuật chớp thời cơ, hành động đúng lúc, đúng cách. Nếu tháng 8/1945 là khoảnh khắc “ngàn năm có một” để khởi nghĩa toàn dân, thì ngày nay, chúng ta cũng đang đối mặt với nhiều thời cơ lịch sử mới, từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến xu thế chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu.

Chỉ khi tận dụng được thời cơ, phát huy tinh thần hành động quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, mới có thể đưa đất nước vượt qua mọi trở lực và phát triển bền vững.

Thứ ba là bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh rằng khi cả dân tộc chung một chí hướng, cùng một mục tiêu thì không thế lực nào có thể khuất phục được. Hôm nay, yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên cấp thiết để vượt qua các thách thức trong hành trình hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ tư là bài học về sự chuẩn bị kỹ lưỡng và toàn diện. Thành công của Cách mạng Tháng Tám không phải là kết quả của một sớm một chiều, mà là thành quả của quá trình tổ chức lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa trong nhiều năm. Trong bối cảnh hiện nay, đây chính là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của công tác quy hoạch chiến lược, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học-công nghệ, cũng như củng cố thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Thứ năm, Cách mạng Tháng Tám để lại bài học lớn về tinh thần tự lực, tự cường và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh chiến lược gay gắt, Việt Nam càng cần phát huy nội lực, tăng cường nội sinh của nền kinh tế, đồng thời tranh thủ tối đa các cơ hội hợp tác quốc tế để nâng cao vị thế quốc gia.

Tròn 80 năm đã trôi qua kể từ khi bản Tuyên ngôn độc lập vang lên trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, nhưng những bài học, giá trị và tinh thần của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn luôn trường tồn cùng dân tộc; là điểm tựa tinh thần vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vững bước trên hành trình xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng./.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Hội đồng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt sau phiên họp đầu tiên, sáng 3/9/1945. (Ảnh: TTXVN)

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Hội đồng Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt sau phiên họp đầu tiên, sáng 3/9/1945. (Ảnh: TTXVN)

 

Lượt xem: 57

Xem nhiều nhất

Ban Bí thư chỉ đạo chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

Xây dựng Đảng 1 ngày trước

 Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú Xem xét đề nghị của Văn phòng Trung ương Đảng về Đề án chấn chỉnh lề lối làm việc; phòng, chống hình thức, lãng phí và chuẩn hóa các hoạt động trong hệ thống chính trị (Tờ trình số 151-TTr/VPTW, ngày 24/11/2025), Ban Bí thư kết luận như sau:1. Thời gian qua, với quyết tâm chính trị, nỗ lực lớn của toàn Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát cơ sở, phục vụ người dân tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác như tình trạng ban hành văn bản, hội họp nhiều, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, địa phương chưa thật nhuần nhuyễn, chặt chẽ, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo chưa đồng bộ, thống nhất, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế...2. Để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế trên, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:2.1. Về công tác ban hành văn bản- Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản theo hướng đơn giản hóa và rút gọn, tích hợp các quy trình, thủ tục trong ban hành văn bản. Không ban hành văn bản thuộc thẩm quyền riêng thay cho văn bản thuộc thẩm quyền chung của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Không đưa nội dung về công tác cán bộ, chế độ, chính sách vào văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức, kỹ thuật trình bày.- Tăng cường rà soát, bảo đảm tính nhất quán trong nội dung của các văn bản đã ban hành; sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; tích hợp một số quy định cần thiết có liên quan giữa các văn bản thành quy định chung; tích hợp các nội dung tương đồng liên ngành vào một văn bản liên tịch (bộ, ngành) để hướng dẫn, tổ chức thực hiện, tránh gây khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp và người dân.- Chỉ ban hành văn bản khi thật cần thiết để quy định, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, không ban hành văn bản mang tính sao chép lại nội dung văn bản của cấp trên. Nội dung văn bản phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, rõ mục tiêu; các giải pháp, chính sách đề ra phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Văn bản của cấp dưới phải cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của cấp trên thành các nhiệm vụ, giải pháp của cấp mình, đơn vị mình, có quy định nguồn lực, thời gian hoàn thành và phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hằng năm, các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện tinh giản tối thiểu 15% số lượng văn bản hành chính so với năm trước.2.2. Về công tác tổ chức các hội nghịHằng năm, trên cơ sở chương trình công tác, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị căn cứ tình hình thực tiễn xây dựng kế hoạch tổ chức các hội nghị; trong đó, số lượng hội nghị trực tiếp chiếm không quá 40% và số lượng hội nghị trực tuyến chiếm không ít hơn 60% tổng số hội nghị trong năm. Không tổ chức các hội nghị nếu không thật sự cần thiết hoặc nội dung đã có văn bản hướng dẫn chi tiết. Các cấp không tổ chức lại hội nghị đã tổ chức theo hình thức truyền hình trực tiếp, trực tuyến đến cơ sở. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức hội nghị, không để vượt định mức kinh phí phục vụ hội nghị; thực hiện tinh giản 10% số lượng hội nghị hằng năm.- Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường điều phối việc tổ chức hội nghị của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình, tránh trùng lặp, quá tải, tập trung vào thời điểm đầu năm hoặc cuối năm; một năm cấp tỉnh tổ chức không quá 2 hội nghị có quy mô toàn tỉnh (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị tỉnh, thành phố, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn tỉnh thì ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; cấp xã tổ chức không quá 3 hội nghị có quy mô toàn xã (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp xã, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân cấp xã), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn xã thì ban thường vụ đảng ủy cấp xã xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.- Khi tổ chức hội nghị cần xác định rõ quy mô và thành phần tham gia, số lượng đại biểu phù hợp, bảo đảm hiệu quả theo nguyên tắc hội nghị của khối nào (Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử, đoàn thể) thì mời đại biểu của khối đó dự. Hội nghị toàn quốc do Bộ Chính trị triệu tập có thành phần là các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các hội nghị còn lại chỉ mời, triệu tập những thành phần thuộc phạm vi quản lý của cấp triệu tập hội nghị và có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nội dung hội nghị. Hội nghị của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức có tính chất nội bộ: Chỉ mời đại biểu của cấp mình, ngành mình, không mời đại biểu Trung ương và các ngành, địa phương khác (trừ trường hợp nội dung hội nghị có tính chất liên ngành, liên địa phương cần phải phối hợp giải quyết; việc tổ chức đại hội, lễ kỷ niệm ngày truyền thống thực hiện theo quy định riêng). Các hội nghị chuyên môn: Mời, triệu tập cán bộ phụ trách chuyên môn dự, không mời các thành phần không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực, nội dung chuyên môn của hội nghị. Cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị có trách nhiệm phân công lãnh đạo chủ trì, không mời tất cả lãnh đạo của cơ quan cùng dự và chủ trì.- Đổi mới và cải tiến phương thức họp theo hướng ngắn gọn, rõ nội dung; tập trung thảo luận, không trình bày lại nguyên văn tài liệu đã gửi. Các hội nghị quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị, chủ trương lớn có thời gian họp không quá ½ ngày; các hội nghị chuyên môn, nghiệp vụ có thời gian họp không quá 1 ngày; các hội nghị quan trọng của bộ, ngành, địa phương cần thảo luận thì có thời gian họp không quá 1,5 ngày. Phát biểu tại hội nghị phải ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày, không kể thành tích, diễn biến tình hình. Phát biểu chỉ đạo khai mạc không quá 10 phút, phát biểu kết luận hội nghị của lãnh đạo có tổng thời lượng không quá 50 phút; phát biểu tham luận không quá 10 phút.2.3. Về đổi mới phương thức làm việc, phối hợp công tác, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau sắp xếp; xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và tăng cường quản lý danh mục trách nhiệm, quy chế, quy trình, thủ tục công tác, bảo đảm thống nhất giữa trách nhiệm và quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; bãi bỏ các quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp để đơn giản hóá, giảm gánh nặng cho cấp dưới. Hoạt động của cơ sở phải được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng các kế hoạch, chương trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Tăng cường đổi mới, cải tiến phương thức, phương pháp làm việc, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp, đùn đẩy, né tránh trong tổ chức và hoạt động, gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân; lấy kết quả, sản phẩm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác.- Những nội dung đã phân cấp, phân quyền cần phải được đánh giá và chuẩn hóa rõ ràng. Cấp dưới khi được phân cấp, phân quyền phải tự chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện phân công nhiệm vụ theo nguyên tắc một việc chỉ phân công một đầu mối (cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị) chủ trì giải quyết, xử lý theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm. Cấp trên không được can thiệp trái quy định công việc của cấp dưới, cấp dưới phải chủ động giải quyết công việc thuộc thẩm quyền đã được phân cấp, không được đùn đẩy, né tránh, ỷ lại, xin ý kiến cấp trên những nội dung công việc theo quy định thuộc thẩm quyền và không phải là những khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền.- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy định thực hiện chuyển đổi số trong công tác. Quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm kết nối thông suốt, an toàn thông tin, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu từ Trung ương đến cơ sở, tạo thuận lợi trong khai thác dữ liệu dùng chung, kiểm soát tự động tránh trùng lặp nội dung; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện việc xử lý thủ tục hành chính trên môi trường số và số hóa văn bản đạt từ 95% trở lên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số, kỹ năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ, công chức ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động chuyên môn. Khẩn trương chuẩn hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất các chỉ tiêu, biểu mẫu, hệ thống số liệu thông tin báo cáo, bảo đảm nội dung báo cáo ngắn gọn, rõ thời gian, rõ người chịu trách nhiệm, định lượng được kết quả và giảm được số lượng báo cáo; thực hiện 100% văn bản ban hành và báo cáo định kỳ, thông tin truyền tải giữa các cấp qua môi trường mạng.- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội về tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ngay tại cơ sở, không để kéo dài; đề cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Hằng năm, thực hiện việc đánh giá, xếp loại cán bộ đối với người đứng đầu thông qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Kết luận này tại tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách.3. Các tỉnh uỷ, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, thực hiện toàn diện, triệt để các nội dung về chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị trực thuộc.- Hằng năm, định kỳ 6 tháng, quý, các tỉnh ủy, thành uỷ, đảng ủy trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Bí thư về việc thực hiện Kết luận này, tập trung vào kết quả giảm số lượng văn bản ban hành, số lượng các hội nghị, cuộc họp; việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.- Giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo, giải quyết./.